🐺 Thơ Trào Phúng Hồ Xuân Hương

NỘI DUNG CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG: Khái niệm "Trào phúng" "Trào phúng" thân từ Hán - Việt Nếu tách riêng chữ "trào" cười cợt, chế giễu; "phúng" lời bóng gió để châm biếm, đả kích Nghệ thuật trào phúng Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là hiện tượng độc đáo vô song. Là nhà thơ nữ, Xuân Hương nói lên tiếng nói ca ngợi và bênh vực cho phái mình. Là nhà thơ trào phúng, đả kích, bà không ngần ngại xé toạc hết các bộ mặt giả dối, lột trần hết lớp áo đạo đức cao ngạo của giai cấp thống Thủ pháp song quan và yếu tố tục - thanh trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Cơ chế của nghệ thuật trào phúng Hồ Xuân Hương đó là dựa vào thủ pháp song quan, xây dựng những hình tượng mang ý nghĩa sóng đôi, gắn với yếu tố cái tục để làm vũ khí châm biếm. Từ bé, Hiếu rất nghịch ngợm, hay trêu chọc bạn bè. Lớn lên, ông rất thích đọc thơ văn trào phúng của các nhà thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… Với năng khiếu bẩm sinh và tự trau dồi kiến thức, làm thơ khôi hài, châm biếm, dần dần ông nổi tiếng khắp Đôi nét về Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ Nôm. Trong nền văn học Việt Nam nói phổ biến cùng vnạp năng lượng học tập trung đại đất nước hình chữ S dành riêng, Hồ Xuân Hương là 1 Một trong những nhà thơ vượt trội, sẽ "làm sửng nóng cả đương thời lẫn hậu nắm Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Hồ Xuân Hương » Thơ truyền tụng ☆☆☆☆☆ 3 5.00. Thể thơ: Thất ngôn bát cú Thời kỳ: Nguyễn 2 người thích: , Từ khoá: trăng (220) thơ trào phúng (173) Chia sẻ trên Facebook; Trả lời; In bài thơ; Một số bài cùng từ khoá - Đánh đu (Hồ Xuân Hương) Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hết sức độc đáo: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian, từ đề tài, cảm hứng, đến ngôn ngữ, hình tượng. VHSG- Từ khi có thơ đăng báo ở Hà Nội những năm 1930, bút danh Tú Mỡ rất hấp dẫn bạn đọc. Tú Mỡ tên khai sinh là Hồ Trọng Hiếu, sinh ngày 14-3-1900. Họ Hồ của ông là một chi của họ Hồ ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, quê của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, chuyển ra sống ở Hà Nội đã ba đời. Hình ảnh và thân phận người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hết sức độc đáo: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian, từ đề tài, cảm hứng, đến 242e0X. Thơ hay Hồ Xuân HươngTop 12 bài thơ hay nhất của Hồ Xuân Hương. Các bài thơ sau đây nằm trong những tập thơ và những bài thơ hay nhất của nhà thơ Hồ Xuân Xuân Hương mệnh danh là bà chúa thơ Nôm, và là nhà thơ. Những tác phẩm mà Hồ Xuân Hương sáng tác với nội dung hết sức độc đáo, mới mẻ và mang phong cách nghệ thuật và giá trị sâu sắc. Sáng tác của bà hầu như viết về những người phụ nữ có thân phận thấp kém trong xã hội đương đại, bất hạnh và chịu bao đắng cay cuộc Thơ tự tìnhTự tình 1Tiếng gà xao xác gáy trên vòmOán hận trông ra khắp mọi chòmMõ thảm không khua mà cũng cốcChuông sầu chẳng đánh cớ sao omTrước nghe những tiếng thêm rầu rĩSau hận vì duyên để mõm mòmTài tử văn nhân ai đó táThân này đâu đã chịu già tình 2Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,Trơ cái hồng nhan với nước rượu hương đưa say lại tỉnh,Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,Xiên ngang mặt đất, rêu từng toạc chân mây, đá mấy nỗi xuân đi xuân lại lại,Mảnh tình san sẻ tí con con!Tự tình 3Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh,Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh khoang tình nghĩa dường lai láng,Nửa mạn phong ba luống bập lái mặc ai lăm đỗ bến,Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ai thăm ván cam lòng vậy,Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.==>Đại ý bài thơTự Tình lại là một bài thơ hay khác nói về cảm xúc đặc biệt trong lòng cho mỗi người đọc. Nó mang những điều đặc biệt và trong những hình ảnh nói về về một đất nước thái bình, người phụ nữ không phải chịu những đau đớn và tình duyên ngang trái lỡ làng nữa. Điều đó cũng mang đậm những hình ảnh thơ và những hình tượng sâu sắc về một sắc thái nhẹ nhàng, những cảm xúc về sự phẫn uất và cả những sự đồng cảm riêng về con người. Một khát khao lớn về hạnh phúc của tác giả mà khiến ai cũng mong nhớ, khát khao có một cuộc tình ấm nồng, đầy cảm xúc hình tượng thơ dạt dào và lay chuyển tâm hồn người đọc. Ở đây hình tượng thơ của bà đã mang những nỗi nhớ miên man, sâu sắc vào cho tâm thần của mỗi con Cảnh thuThánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán,Trắng xóa tràng giang phẳng lặng dốc giang sơn say chấp lưng phong nguyệt nặng vì hay, cánh cương ưa người nhỉ,Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.==>Ý nghĩa bài thơ có hiểu theo nghĩa đơn giản đó là Cảnh thu tiêu sơ, ngoạn mục, tuyệt vời. Những giọt mưa rơi giữa trời không ngớt, từng giọt, từng giọt đổ xuống từ tàu lá chuối. Dù có bút thần đi chăng nữa cũng không thể nào vẽ lên được cũng không thể nào vẽ lên được cái phong cảnh có chút đượm buồn, đơn sơ ấy. Qua hai câu tiếp theo đường nét màu sắc của bức tranh có chút thay đổi. Đó là màu sắc tốt tươi, xanh tốt của cây cổ thụ với tán cây thật tròn. Đó là con sông êm ả lặng lờ trôi, phản chiếu xuống dòng sông là màu trắng của mây trời, trôi đoạn tiếp, ý hiểu là người đã chếnh choáng say, cho dù đã có tửu lượng trong người, đã cạn hết bầu rượu bầu dốc, nhưng trước cảnh sắc của thiên nhiên vẫn muốn chấp rượu. Người say không chỉ vì say rượu mà say còn bởi vì cảnh đẹp của giang Vịnh cái quạtMột lỗ xâu xâu mới cũng vừaDuyên em dính dán tự ngàn xưaChành ra ba góc da còn thiếuKhép lại đôi bên thịt vẫn thừaMát mặt anh hùng khi tắt gióChe đầu quân tử lúc sa mưaNâng niu ướm hỏi người trong trướng“Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?”==> Đại ý bài thơThơ của Hồ Xuân Hương luôn có nhiều hàm ý, với bài thơ này theo tôi hiểu chung đây là bài thơ miêu tả về về đẹp của người phụ nữ. Nhưng cũng có thể theo Hồ Xuân Hương ý nghĩa trong những bài thơ này là ý khác. Hoặc bà chỉ đơn giản miêu tả cái quạt giấy gấp mà thôi…. Nếu đã không thể tìm câu trả lời chính xác từ chính chủ, thôi thì ta… đơn giản cứ tin những gì mình nghĩ, cảm nhận cái đẹp theo cách mà ta cảm nhận Bánh trôi nướcThân em vừa trắng, lại vừa tròn,Bảy nổi ba chìm với nước nát mặc dầu tay kẻ nặn,Mà em vẫn giữ tấm lòng son.===>Nhà thơ mượn hình ảnh bánh trôi nước để nói lên thân phận của người phụ nữ nói chung và thân phận mình nói riêng. Hình ảnh bánh trôi nước, một hình ảnh mới và lại khá quen thuộc khi được nữ sĩ đưa vào thơ của Vấn nguyệtTrải mấy thu nay vẫn hãy còn,Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi?Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con?Đêm tối cớ sao soi gác tía?Ngày xanh còn thẹn mấy vầng canh lơ lửng chờ ai đó?Hay có tình riêng mấy nước non?==>Đại ý Đó là có thể là lời tâm sự của người con gái mới biết yêu. “Hồ Xuân Hương đã yêu Nguyễn Du rồi sau đó tự vấn lòng mình*1-2 Hỏi vầng trăng muôn thuở, Trải mấy thu nay vẫn hãy còn, những câu hỏi vu vơ, vì sao vầng trăng khi khuyết lại khi tròn.*3-4 Hỏi con bạch thố, thỏ bạch trên cung trăng được bao nhiêu tuổi; và chị Hằng Nga bây giờ đã được mấy con…*5-6 Đêm tối cớ chi soi duyên nàng đến với Nguyễn Du, con nhà quyền quý ở gác tía lầu son. Khiến cho ngày xanh gặp nhau, thẹn với mặt trời đang lên.*7-8 Năm canh lơ lửng trằn trọc nhớ ai, hay đã có tình riêng với nước non6. Động Hương tíchBầy đặt kìa ai khéo khéo phòm,Nứt ra một lỗ hỏm hòm quen cõi Phật chen chân xọc,Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt nước hữu tình rơi thánh thót,Con thuyền vô trạo cúi lom tuyền quyến cả phồn hoa lại,Rõ khéo trời già đến dở dom.==>Một bài thơ khác của Hồ Xuân Hương tuy chẳng chứa từ xuân, song nó vẫn mang đậm khí vị hội xuân “Động Hương Tích” là một địa danh chỉ thắng cảnh trung tâm quần thể di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng cả nước. Chùa Hương ở huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, từ ngày 1-8-2008 sáp nhập vào địa bàn thành phố Hà Nội. Chùa ấy là nơi khách thập phương nô nức trẩy hội mỗi dịp xuân Đá Ông Bà ChồngKhéo khéo bày trò tạo hoá côngÔng Chồng đã vậy lại Bà ChồngTầng trên tuyết điểm phơ đầu bạcThớt dưới sương pha đượm má hồngGan nghĩa dãi ra cùng chị NguyệtKhối tình cọ mãi với non sôngĐá kia còn biết xuân già giặnChả trách người ta lúc trẻ trungMùa xuân là một mùa trong năm, một sự chuyển biến theo chu kì thời gian. Qua thơ bài thơ, mùa xuân được chuyển dịch theo một quỹ đạo tâm lý. Với nữ sĩ, mùa xuân hừng hực cá tính, dồi dào sinh lực đã hiện lên chân thật cả khối tình"Gan nghĩa dãi ra cùng tuế nguyệtKhối tình cọ mãi với non kia còn biết xuân già dặn"Chả trách người ta lúc trẻ trung. Ngắm nghía “đá ông Chồng bà Chồng”, nữ sĩ hào hứng phả tình vào đá. Và tình đá vụt hóa tình xuân. Đọc bài thơ này, Xuân Diệu phải ngợi ca rằng bà chúa thơ Nôm còn là nữ nghệ sĩ tạo hình trác tuyệt “Một nhà điêu khắc truyền cả hơi sống, cả tình yêu vào đá, đến nỗi hòn đá cũng ửng hồng lên như có máu chạy đá cứng lắm, nặng lắm, mà nó chẳng nằm chết như đá, nó dãn ra, nó bị cọ mài, nó già dặn tình xuân”Qua bài thơ nữ sĩ hiện lên chẳng những là nữ sĩ tạo hình mà còn tạo tình nữa. Vừa kỳ công và cũng vừa tuyệt thú, bà chúa thơ Nôm đã biến cảm xúc mùa xuân, cái tưởng chừng khó nắm bắt trở thành vật thể gồ ghề góc cạnh, dày dày mảng khối, tươi tắn nhiều sắc màu Đôi lứa như in tờ giấy trắng, Dẫu nghìn năm còn mãi cái xuân xanh. Tình xuân được hữu thể hóa, Có sớm ư? Thời lại có trưa... Vậy mới phơi phới, ngây ngất và hoan lạc. Xót thương thay cho những ai, vì lý do thiên tạo hoặc nhân tạo, không được thụ hưởng hạnh phúc tốt vời của đời sống thế trần, bởi Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu!8. Hoạ NhânVài hàng chữ gấm chạnh niềm châu,Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,Sương pha khói biếc rộn thêm thơ trước viện, nhà khoe gió,Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.==> bài thơ này được Hồ Xuân Hương viết khi bị mẹ cậy người mai mối gả cho thầy lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nhân có người về Hà Tĩnh. Hồ Xuân Hương gửi bài thơ này. Cũng theo ông, thì bài “Ký mộng” của Nguyễn Du là để đáp lại bài thơ Duyên Kỳ NgộNghìn dặm có duyên sự cũng thành,Xin đừng lo lắng hết xuân gang tay họa thơ không dứt,Gần gụi cung dương lá vẫn sẵn bút đề dường chĩnh chện,Trống mang dùi cắp đã phanh không thả lá trôi dòng ngự,10. Hỏi TrăngMột trái trăng thu chín mõm mòm,Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,Ngoài khép đôi cung cánh vẫn mặt kẻ trần đua xói móc,Ngứa gan thằng Cuội đứng lom người bẻ quế rằng ai đó,Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.==> Đại ý bài thơ1-2 Giới thiệu hình ảnh và màu sắc đặc biệt của vầng trăng Vầng trăng bấy giờ là một quả trăng, chín muồi lâu là một khối tròn có cây quế đỏ, đỏ phát ớn.3-4-5-6 Những chi tiết của vầng trăngỞ giữa mặt trăng hình chiếc bích, tròn dẹt nên khuôn nó chưa tròn, mà méo đi. Méo méohình tròn lệch, sai đi với hình chuẩn. Bên ngoài mặt trăng có hai cánh cung khép sâu mình vì người đời đua nhau xói đâm thẳng vào, móc dùng tay tìm kiếm hay lấy vật gì trong lỗ ra. Ở đây, xói móc, nghĩa bóng là châm chọc, bung ra những chuyện riêng tư của người nên thằng Cuội cứ đứng khom lưng.7-8Vậy dám nào, xin hỏi, ai đã là người đã đi bẻ quế?Ở nơi đó, có một người đẹp như Hằng Nga vẫn còn đang mong mỏi, đợi chờ .11. Du cổ tựThầy tớ thong dong dạo cảnh chùaCầm thư lưng túi rượu lưng hồCá khe lắng kệ đầu ngơ ngácChim núi nghe kinh cổ gật gùThen cửa từ bi nêm chật cánhNén hương tế độ cắm đầy lòNhà sư ướm hỏi nhà sư tíPhúc đức nhà ngươi được mấy bồ12. Lỡm Học TròKhéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơLại đây cho chị dạy làm thơOng non ngứa nọc châm hoa rữaDê cỏn buồn sừng húc giậu thưaTrên đây là tổng hợp 12 bài thơ hay nhất của thi sĩ Hồ Xuân Hương. Các bạn có thể tham khảo chi tiết Chuyên mục Tài liệu VnDoc để tham khảo đa dạng các chủ đề thơ ca hay nhất. Ngày đăng 18/12/2015, 1131 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Lí chọn đề tài Hồ Xuân Hương tượng văn học thấy văn học Việt Nam Không tài hoa xuất chúng mà thơ văn lẫn đời bà làm tốn không nhiều giấy mực giới nghiên cứu Giáo sư Lê Đình Kỵ bàn Hồ Xuân Hương có câu nhận xét sau “Thơ Xuân Hương vốn xa lạ với lối đại ngôn kiểu đó, mà bình dị, tự nhiên - khí mà huyết khí, với khí chất riêng mình” Chính mang cốt cách riêng, khí khái riêng mà ẩn chứa thơ Xuân Hương sức sống tiềm tàng mãnh liệt, chực chờ tuôn trào câu chữ thứ tạo nên cốt cách riêng ấy, nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Mục đích nghiên cứu Việc tìm hiểu kỹ nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương giúp hình dung rõ nét người cá tính thơ bà, đồng thời hiểu lý thơ văn Hồ Xuân Hương lại có giá trị to lớn đến văn học nước nhà Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu đề tài nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu đề tài xoay quanh tác phẩm thơ Hồ Xuân Hương Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp liệt kê Phương pháp so sánh… NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khái niệm “Trào phúng” “Trào phúng” thân từ Hán - Việt Nếu tách riêng chữ “trào” cười cợt, chế giễu; “phúng” lời bóng gió để châm biếm, đả kích Nghệ thuật trào phúng cách thức dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích thói hư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã hội Người ta thường chia trào phúng thành ba loại chính loại khôi hài, cười cợt; loạt phê phán, đả kích loại châm biếm chế giễu Đặc trưng thơ trào phúng yếu tố gây cười, yếu tố hài hước văn thể mặt nội dung lẫn hình thức ta cảm nhận rõ điều thơ Hồ Xuân Hương Đối tượng trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương nhìn ung nhọt xã hội đưa vào thơ mình, tiếng chửi bà cất lên đầy khiến người nghe phải cười thích thú Đối tượng lên án bà đa dạng có đặc điểm chung tên “bụng đầy kinh sách” hay hạng “quyền cao chức trọng” lúc cao Đó tên công tử nhà giàu hợm hĩnh, ham ghẹo gái lại võ vẽ làm thơ, lại thích đề thơ trước cửa đền, chùa khoe mẽ “Dắt díu lên đến cửa chiền, Cũng đòi học nói, nói không nên Ai nhắn bảo phường lòi tói, Muốn sống, đem vôi quét trả đền” Bọn Đồ Dốt Bà truy tận gốc lũ hại dân, hại nước không chừa ai, kể lũ vua chúa , quan lại, hiền nhân quân tử cho có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo lí thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội người thật chúng không hám danh, hám lợi mà đam mê tửu sắc “Hồng hồng má phấn duyên cậy Chúa dấu vua yêu này” Vịnh quạt Nếu với tầng lớp vua chúa, quan lại bà chửi thẳng vào thói háo sắc thích “giả vờ” với đám quan thị, bà đánh vào sống trái lẽ tự nhiên bọn chúng “Quan thị” Ngoài ra, sư sãi đối tượng nhắc đến không lần thơ Xuân Hương Trong xã hội rối ren, nhà chùa không giữ vẻ trang nghiêm, thành kính vốn có mà thay vào tên sư vô lại, lợi dụng nơi tu hành để thực hành vi giả dối đồi bại “Sư hổ mang”, “Chùa Quán Sứ”, “Cái kiếp tu hành”… Tuy nhắc đến nhiều trọng tâm “anh hùng quân tử”, Xuân Hương không bỏ qua tên đàn ông bạc tình bạc nghĩa, xem tình cảm cô gái ngây thơ trò chơi để “no xôi chán chè”, chúng thẳng tay rũ bỏ “Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, Phận liễu đà nảy nét ngang Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? Mảnh tình khối thiếp xin mang” Không chồng mà chửa Trào phúng thơ Xuân Hương thể nhiều cung bậc cảm xúc khác Hả có, thích thú có đắng cay có, chua xót nhiều Tiếng cười mang ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa phản kháng mạnh mẽ, liệt không trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương đậm đà chất trữ tình đặc sắc CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khắc họa hình tượng nhân vật, chủ thể điệu bộ, cử chỉ, tính cách Để góp phần tạo nên thành công việc xây dựng nghệ thuật trào phúng, không nhắc đến tài khắc họa hình tượng nhân vật Hồ Xuân Hương Bà phác nên nét riêng cho nhân vật cách giản đơn, dung dị mà chẳng cần miêu tả ngoại hình từ ngữ, câu thơ dài dòng Bà khéo léo thổi hồn vào nhân vật thông qua biểu lộ thái độ thân “Khéo khéo đâu lũ ngẩn ngơ Lại cho chị dạy làm thơ” Ong non ngứa nọc châm hoa rữa Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa!” Lũ ngẩn ngơ Trong “Giai thoại văn học Việt Nam” có ghi chép, ngày kia, Hồ Xuân Hương thăm chùa Trấn Quốc về, bà lững thững bên bờ hồ Tây có vài tên thầy khóa rảo theo sau, giở giọng chữ nghĩa hòng ghẹo Xuân Hương lặng thinh không nói, đến nghe thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy, không chịu được, bà quay lại đọc dồn cho chúng cho thơ Chỉ với từ “ngẩn ngơ” câu phác họa toàn dáng vẻ tên văn sĩ nửa mùa hay Chúng mang tiếng chữ nghĩa đầy chẳng khác “lũ ngẩn ngơ”, gì, để cô gái trẻ phải “dạy” lại Hồ Xuân Hương gọi chúng “dê cỏn” dê con, dê dê nhỏ, ngây thơ, “dê cỏn” hạng dê lớn, ngang ngược, tự đắc Cách gọi “ong non”, “dê cỏn”, “ngứa nọc”, “buồn sừng” thể thành công chất ti toe anh nửa trẻ nửa người lớn Bọn chúng kẻ “ngựa non háu đá”, hợm hĩnh thực chất chút học thức thật Có thể nói, thú vị, hóm hỉnh Xuân Hương khiến bật cười, cười thích thú xen lẫn nể phục nữ nhi, tài nghệ văn chương bà hẳn thứ mang danh “thầy” nửa mùa Hay “Sư hổ mang”, vị sư thầy đáng kính, đạo mạo hay nghĩ tới nhắc đến chùa chiền, Phật giáo không thấy thơ bà nữa “ Chẳng phải Ngô, ta, Đầu trọc lốc, áo không tà Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm, Vải núp sau lưng sáu bảy bà Khi cảnh, tiu, chũm choẹ, Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi Tu lâu có lẽ lên Sư cụ, Ngất nghểu sen mà.” Sư hổ mang Đầu trọc đỗi bình thường, sư mà đầu chẳng trọc? Thế kèm với từ “lóc” thành “trọc lóc”, “áo không tà”, chân dung nhà sư lên đầy vẻ thấy mỉa mai, đùa cợt Ban ngày bao nhà sư khác, cúng dường,“oản dâng” Phật bình thường, mà ẩn sau đó, “sắc dục” quẩn quanh , vây hãm lấy nhà sư Không thế, chùa chiền vốn chốn tôn nghiêm, thiêng liêng, mà sư với vãi chơi trò chơi đám nít?! Ở chùa có chuông, mõ mà lại có đủ thứ nhạc khí phường bát âm "Khi cảnh, tiu, chũm chọe" Và tụng kinh niệm Phật mà muốn đổi giọng đổi "Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha" chẳng khác diễn tuồng! Chỉ vài hình ảnh cử chỉ, giọng điệu toát hình tượng nhà sư mà người đời kính trọng trở nên biến chất mặt đạo đức đến mức xã hội lúc Cách khắc họa nhân vật Hồ Xuân Hương vô đơn giản lại toát lên hương vị, đặc trưng, điển hình cho phong cách thơ bà Chỉ vài nét chấm phá, hình tượng người lên với đầy đủ đặc điểm, tính chất mà Xuân Hương muốn đề cập đến Đó điều mà nhà thơ thực được, ta thấy rõ nét nhiều thơ “bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương Cách sử dụng từ ngữ Nếu so sánh kiểu lựa chọn từ ngữ Bà Huyện Thanh Quan với cách sử dụng từ ngữ Hồ Xuân Hương, ta thấy có đối nghịch rõ nét hai người Cùng miêu tả đèo câu chữ Bà Huyện Thanh Quan sang trọng, mực thước mang phóng cách thơ văn “quý tộc” “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ chen lá, đá chen hoa Lom khom núi, tiều vài Lác đác bên sông, chợ nhà” Qua Đèo Ngang Trong đó, Đèo Ba Dội Hồ Xuân Hương vô gần gũi, thân thuộc nhiều Nếu đứng phương diện ý nghĩa nhã mà so sánh thơ Bà Huyện Thanh Quan hình đen trắng phẳng Đèo Ba Dội tranh ba chiều sống động đầy màu sắc âm Xuân Hương không chiêm nghiệm sống từ khoảng cách xa mà trái lại bà tận hưởng tất âm thanh, màu sắc, hình khối… vạn vật trạng thái sung mãn Nữ thi sĩ tài hoa khai thác triệt để khả tu từ phong phú ngôn ngữ dân tộc hết, nghệ thuật trào phúng bà mài giũa bén nhọn Tài mặt ngôn ngữ không biểu lộ thông qua cách thức miêu tả cảnh vật thiên nhiên, mà muốn trào lộng đó, bà khiến chúng, có bậc “anh hùng”, “quân tử”, “văn nhân” hay chí bậc “vua”, “chúa” phải vẻ thiêng liêng, đạo mạo, bà bóc trần kẻ giả dối mà khoác lên thân áo đạo đức cao sang Cả tiếng xưng hô với thần thánh “đây”, “đấy” bà đứng trước Đền Sầm Nghi Đống nghe đầy vẻ kể cả, xách mé “Ví đổi phận làm trai được, Thì anh hùng há nhiêu!” Đền Sầm Nghi Đống Không thế, việc sáng tạo nhiều từ ngữ lạ, cách thức dùng “Xuân Hương” Những từ ngữ sắc nhọn đậm chất liên tưởng “cửa son”, “bậc đá”, “lún phún”, “nòng nọc”, “lỗ, hang”, “tùm hum”, “mân mó”,… làm tác động mạnh lên thần kinh cảm giác người đọc, buộc người đọc không muốn hình dung phải hình dung Trong thơ Hồ Xuân Hương tràn ngập động từ mạnh, có từ thân động từ mạnh có lẽ nữ thi sĩ chưa vừa ý, bà gắn thêm vào phó từ bổ nghĩa mà ta thấy Tự tình III “Xiên ngang mặt đất rêu đám Đâm toạc chân mây đá hòn.” Tự tình III Từ “ngang” làm cho động từ xiên trở nên cứng chắc, khỏe động tác trở nên “ngọt” hơn, “toạc” biến động từ trở nên mạnh mẽ hết, đâm vút lên chỉa thẳng vào chân mây, làm rách toạc bầu trời, mà ngăn cản Sự thêm thắt đầy sáng tạo tạo nên chất mạnh mẽ thơ Hồ Xuân Hương Có lẽ đặc biệt thơ Hồ Xuân Hương cách sử dụng từ láy lạ Những từ láy có tác dụng diễn tả độ sâu, độ nhoè, luồn lách, chông chênh, cử động nhanh mạnh “hỏm hòm hom”, “trắng phau phau”, “đỏ lòm lom”, … Chỉ từ mà diễn tả chiều không gian, rộng sâu hun hút “Bày đặt khéo khéo phòm Nứt lỗ hỏm hòm hom” Động Hương Tích Hay “Trời đất sinh đá chòm Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom” Hang Cắc Cớ Để diễn tả độ sâu, Xuân Hương dùng hai lần từ “hỏm hòm hom” hai “Hang Cắc Cớ” “Động Hương Tích” Không phải “hun hút”, “thăm thẳm” mà “hỏm hòm ho,”âm “o” tròn môi kết hợp với vần “om” làm mở rộng thêm độ sâu tận hang, đồng thời cho thấy chiều rộng lẫn chiều cao hang động, kích thích trí tò mò người Một từ mà diễn đạt đa chiều không gian đó, nhìn lại dòng thơ thời đại đổ sau, ta khó mà kiếm câu thơ đặc biệt đến Thơ Huy Cận tài tình không tránh khỏi dùng nhiều từ không gian để dẫn giải chiều không gian “Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu” Tràng giang Xuân Hương không cần “xuống”, “lên”, “sâu”, chẳng cần “dài”, “rộng” mà từ khiến người đọc hình dung rõ ba chiều không gian vật mà bà muốn nói đến Trong thơ Hồ Xuân Hương sáng tác, từ láy sử dụng với tần suất cao, bao gồm từ láy gợi âm thanh “tỉ tì ti”, “hi ha”, “hu hơ”, “vo ve”, …, từ láy gợi cảm giác, xúc giác “xù xì”, “toen hoẻn”, “lam nham”,…, từ gợi tư vận động “cheo leo”, “vắt vẻo”, “lom khom”, ngất nghểu,… hay từ tượng gây tiếng động khua lắc cắc, vỗ long bong, vỗ phập phòm, rơi thánh thót, rơi lõm bõm… Ngay từ láy tượng hình hóa nội tâm nhân vật trữ tình “Tự tình” có nét nghĩa vận động “nổi nênh”, “lênh đênh”, “lai láng”, …đều gợi trôi nổi, chơi vơi Thơ Xuân Hương thực cá tính mà không nhà thơ bắt chước Bà đưa ngữ vào thơ cách tự nhiên “tí con”, “lại đây”, “muốn sống”… kể tiếng chửi “bá ngọ”, “chém cha”, “cha kiếp”, “lũ ngẩn ngơ”,… mang đậm đặc trưng dân tộc Không trau chuốt, tô vẽ, chất bình dân mộc mạc ngấm sâu Hồ Xuân Hương tạo nên tiếng cười thu hút, gần gũi đại chúng Lê Hoài Nam viết "Hồ Xuân Hương" in Nghĩ thơ Hồ Xuân Hương Nxb GD 1998 nhận xét "Xuân Hương có vốn ngôn ngữ phong phú, xác, đồng thời độc đáo Điều chứng tỏ Hồ Xuân Hương nắm vững ngôn ngữ dân tộc, mà biểu cá tính mạnh mẽ Xuân Hương Có tiếng hỏm hòm hom, trơ toen hoẻn, chín mõm mòm, đỏ lòm lom, sáng banh, trưa trật phải người có lĩnh vững vàng Xuân Hương đưa vào văn học, vào thi ca Nói chung ngôn ngữ Xuân Hương có sức biểu mạnh, xúc tích, hình ảnh sinh động, nói tiếng đắc tiếng" Cách sử dụng từ ngữ đầy tính gợi sinh động cách thức góp phần tạo nên tiếng cười cho thơ văn Hồ Xuân Hương Không bình lặng mà loạn, văn thơ Xuân Hương giống tính cách người bà, có vài trăm, vài nghìn năm sau nữa, làm “điêu đứng” giới thơ văn “Tính dục” thơ Hồ Xuân Hương Không tài tình cách khắc họa, xây dựng nhân vật sử dụng từ ngữ độc đáo, “tính dục” thơ Hồ Xuân Hương thứ góp phần xây dựng thành công nghệ thuật trào phúng Đã có nhiều ý kiến bàn cãi thơ Hồ Xuân Hương nhiều lời nhận định đưa Liệu thơ bà có hay không tồn yếu tố “dâm” “tục”? Tuy thế, có điều mà không phủ nhận rằng, ẩn sâu câu chữ thơ bà đỗi đặc biệt để nhận nó, tiếng cười bật cách vô tự nhiên Hồ Xuân Hương khéo léo lồng ghép ý tứ “thầm kín” lớp bề “thanh tao” “Một đèo, đèo lại đèo Khen khéo tạc cảnh cheo leo Cửa son đỏ loét tùm hum Hòn đá xanh rì lún phún rêu” Đèo Ba Dội Đọc thơ ta thấy rõ Hồ Xuân Hương miêu tả vẻ đẹp Đèo Ba Dội Một đèo Ba Dội với cỏ mọc bừa bãi, bước chân lên đèo thấy đất đỏ chân, hang động màu đỏ chẳng có khiến ta phải phân vân, lí giải dòng thơ bà góc độ phồn thực, cảm thấy thú vị hình ảnh tưởng chừng chân thực lại mang tầng nghĩa sâu xa, sống động đến kì lạ Nói mà không nói, tả mà không tả mà để người đọc tự khơi dậy trí tưởng tượng Bả không nói toạc điều thầm kín 10 buồng the gác kín mà thông qua biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửi gắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên Trong thời đại Nho giáo phong kiến khắt khe, cô gái Hồ Xuân Hương không tự sống thật với tình yêu, hôn nhân, mà ngược lại phải chịu cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính thế, thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu Hồ Xuân Hương sáng tác nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tình cảm, hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời phương tiện để đả kích tầng lớp thống trị mục nát Hay thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương khéo léo đến mức khiến hình dung rõ ràng từ việc dựng đu cảnh chơi đu trai, gái thời xưa. “Bốn cột khen khéo khéo trồng Người lên đánh kẻ ngồi trông Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song Chơi xuân có biết xuân tá Cọc nhổ lỗ bỏ không !” Đánh đu Sự khéo léo, nhịp nhàng cặp từ trai – gái, đu - uốn, khom khom cật ngửa ngửa lòng không gợi sức hút mặt thẩm mỹ mà thông qua đó, ta cảm nhận niềm vui đôi trai gái tham gia trò chơi đánh đu lễ hội làng quê Đặc biệt từ “cật” câu luận danh từ phận thể đứng sau từ láy “khom khom” thường hiểu động từ, vần “at” trắc cao âm gật, bật, lật tạo cảm giác hành động, nhịp nhanh, liên tục cho thấy hào hứng chơi đu Kông thế, hình ảnh “hai hàng chân ngọc” thi 11 sĩ phác họa sống động mà không bút vẽ họa sĩ làm Làm có vẽ nên tranh đôi hàng chân co duỗi nhịp nhàng đến thế? Cái chỗ “đánh đu” mà lại đánh đu Một thơ với nhiều lớp nghĩa kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với đa tầng nhiều lớp nghĩa, thấy rõ tài người phụ nữ tài sắc vẹn toàn Tính “dục” thơ Hồ Xuân Hương dùng để đả kích tên hiền nhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng Mang danh thế, thực chất, nhìn thấy vẻ đẹp, thân thể “thiếu nữ ngủ ngày” “Đôi gò Bồng Đảo hương ngậm Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông” thì “Quân tử dùng dằng chẳng dứt Đi dở không xong” Thiếu nữ ngủ ngày Chỉ từ láy “dùng dằng” đủ để lột tả phân vân, tranh đầu nội tâm dội nên hay nên ở? Đi tiếc lỡ dịp may lạ lùng, chiêm ngưỡng thân ngọc ngà nằm chõng ngàn năm có Ở không xong lỡ có người trông thấy, cô gái tỉnh lại, tiếng lành đồn xa chịu chê cười Và cuối thơ, người ta chàng quân tử định “đi” hay “ở” đời thường đàn ông ngồn ngộn kìm chế Ta bật cười trước băn khoăn anh ta, nhìn muốn lại, mà lại không thể, muốn mà lại chẳng Ôi oăm thay! Biện pháp tu từ Một biện pháp tu từ sử dụng phổ biến thơ Hồ Xuân Hương biện pháp nói lái Nói lái biện pháp tu từ dùng cách đánh tráo phụ âm đầu, vần điệu hai hay nhiều âm tiết để tạo nên lượng ngữ nghĩa bất ngờ, nhằm mục đích châm biếm, đùa vui ây hình thức chơi chữ đặc biệt 12 ngôn ngữ phân tiết tiếng Việt có từ lâu đời thường thấy văn học dân gian Nó tồn câu ca dao, tục ngữ câu hát người xưa “Con cá đối nằm cối đá Con mèo đuôi cụt năm mục đuôi kèo” Hay Cam sành nhỏ ương Ngọt mật đường nhắm lớ anh Thanh ương tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà Ca dao Qua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành biện pháp nghệ thuật đặc trưng thơ bà Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm từ ngữ bà mang nhiều tầng nghĩa phong phú, người ta chiêm nghiệm ra, tiếng cười phá lên đầy thú vị sảng khoái, người ta cảm thấy tâm đắc khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đà chất nghệ thuật tác phẩm bà “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Làm chi chút tẻo tèo teo Thuyền từ muốn Tây Trúc Trái gió phải lộn lèo” Sư hoạnh dâm Xét bề mặt ngữ nghĩa từ có ý nghĩa, tạo nên nội dung thống nhất, hoàn chỉnh “Lộn lèo” dây lèo thuyền buồm bị ngược gió phải lộn ngược trở lại, “trái gió” ngược gió Tuy nhiên lái lại, thơ lại tạo nên lớp nghĩa khác, hoàn toàn không liên quan đến nghĩa gốc tự thân mục đích xoáy sâu vào nhân vật nhắc đến Luận nghĩa thứ hai, hoạt động thuộc 13 ông sư, bà vãi, tiểu… vào đây? Tài tình chỗ từ ngữ mang nghĩa không sống sượng, chớt nhã, khiêu dục… Ở góc độ khác, tài tình Hồ Xuân Hương thể việc dùng từ thuộc trường từ vựng thơ Bài thơ Khóc Tổng Cóc, 28 chữ có từ vật thuộc loài cóc “Chẫu chàng”, “nhái bén”, “nòng nọc”, “chẫu chuộc”, “cóc” Bài “Bỡn bà lang khóc chồng” có nhiều từ vị thuốc “cam thảo”, “quế chi”, “trần bì”, “thạch nhũ”, “quy thân”, “liên nhục”…cả từ hành động bào chế thuốc, dụng cụ làm thuốc “sao”, “tẩm”, “dao cầu”… Bên cạnh đó, việc vận dụng thủ pháp ẩn dụ làm tăng thêm tính biểu tượng, gợi hình cho tranh với đường nét mà Xuân Hương phác thảo nên Mượn hình ảnh ốc nhồi hay mít để đả phá đám quân tử đạo mạo, cao thực chất chuyên đùa bỡn tình cảm cô gái nhà lành thông qua đó, nữ thi sĩ thể ước mơ hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn “Bánh trôi nước” mà nữ sĩ nhắc đến vẻ đẹp hình thể, tâm hồn người gái thân phận bé nhỏ, đời có phũ phàng, xã hội có vùi giập “em giữ lòng son “Tấm lòng son " biểu phẩm chất cao đẹp người phụ nữ xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc mà không đủ sức làm lay chuyển KẾT LUẬN Hồ Xuân Hương thổi luồng gió vào văn học viết Việt Nam Có thể nói, bà người phụ nữ không tài hoa mà gan dạ, dám nói cần nói nói thẳng, nói thật không vòng vo, né tránh Ngôn ngữ Xuân Hương sử dụng giản dị, dễ nhớ, dễ đọc, phù hợp với tầng lớp bình dân Không thế, ngòi bút xuất sắc mình, nữ sĩ khéo léo đưa nghệ thuật trào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc thông qua đó, xã hội với đầy rẫy bất công mà nạn nhân người 14 phụ nữ tái lên Bản thân Hồ Xuân Hương người phụ nữ, chịu kiếp làm lẽ nên thấm thía nỗi đau Chính thế, thơ văn Hồ Xuân Hương mang nội dung chân thực không thế, tính nghệ thuật đậm đà Và nghệ thuật trào phúng bà vô độc đáo khác biệt 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO Bắc Giang, Phiếm Luận thơ Hồ Xuân Hương Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười thơ Nôm truyền tụng thuộc tượng Hồ Xuân Hương Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục thơ Hồ Xuân Hương Đỗ Lai Thúy, Lý giải dâm tục thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực Kiều Văn, Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận “Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên kỷ” Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục thơ Nôm Hồ Xuân Hương góc độ so sánh.” 10 Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm 11 Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg – Thơ đời, 2010 [...]... Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với cái nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên thế kỷ” Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc độ so sánh.” 10 Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm 11 Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg... cũng rất đậm đà Và nghệ thuật trào phúng của bà cũng vô cùng độc đáo và khác biệt 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 2 Bắc Giang, Phiếm Luận về thơ Hồ Xuân Hương Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười trong thơ Nôm truyền tụng thuộc hiện tượng Hồ Xuân Hương 3 Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương 4 Đỗ Lai Thúy, Lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực 5 6 7 8 9... léo đưa nghệ thuật trào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc và cũng thông qua đó, xã hội với đầy rẫy những bất công mà nạn nhân chính là những người 14 phụ nữ cũng được tái hiện lên Bản thân Hồ Xuân Hương cũng là người phụ nữ, cũng chịu kiếp làm lẽ nên càng thấm thía nỗi đau Chính vì thế, thơ văn Hồ Xuân Hương mang nội dung chân thực và không chỉ thế, tính nghệ thuật cũng... thấy trong văn học dân gian Nó tồn tại trong những câu ca dao, tục ngữ câu hát của người xưa “Con cá đối nằm trong cối đá Con mèo đuôi cụt nó năm mục đuôi kèo” Hay Cam sành nhỏ lá thanh ương Ngọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anh Thanh ương là tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà Ca dao Qua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành một biện pháp nghệ thuật rất đặc trưng trong thơ. .. cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu là Hồ Xuân Hương được sáng tác ra nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tình cảm, được hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời còn là phương tiện để đả kích tầng lớp thống trị mục nát Hay trong bài thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương đã khéo léo đến mức khiến chúng ta có thể hình dung rõ ràng từ việc dựng cây đu cho đến... Một bài thơ với nhiều lớp nghĩa sẽ kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với sự đa tầng nhiều lớp nghĩa, chúng ta sẽ càng thấy rõ tài năng của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn này Tính “dục” trong thơ Hồ Xuân Hương còn được dùng để đả kích những tên hiền nhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng Mang danh là thế, nhưng thực chất, khi nhìn thấy vẻ đẹp, thân thể của “thiếu nữ ngủ ngày” “Đôi gò Bồng Đảo hương. .. cuối bài thơ, người ta vẫn không biết chàng quân tử ấy quyết định “đi” hay “ở” dù cho cái bản năng rất đời thường của đàn ông ấy nó cứ ngồn ngộn không thể kìm chế được Ta bật cười trước cái sự băn khoăn của anh ta, càng nhìn càng muốn ở lại, mà lại không thể, muốn đi mà lại chẳng đi được Ôi oái oăm thay! 4 Biện pháp tu từ Một trong những biện pháp tu từ được sử dụng rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương. . .trong buồng the gác kín mà thông qua các biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửi gắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên Trong thời đại Nho giáo phong kiến khắt khe, những cô gái như Hồ Xuân Hương không được tự do sống thật với tình yêu, hôn nhân, của chính mình mà ngược lại còn phải chịu sự cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục”... chất cao đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc bấy giờ mà không ai có thể đủ sức làm lay chuyển nó KẾT LUẬN Hồ Xuân Hương đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học viết Việt Nam Có thể nói, bà là một người phụ nữ không chỉ tài hoa mà còn rất gan dạ, dám nói những gì cần nói và nói thẳng, nói thật chứ không vòng vo, né tránh Ngôn ngữ Xuân Hương sử dụng rất giản dị, dễ... thuật rất đặc trưng trong thơ bà Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm trong từng từ từng ngữ của bà đều mang nhiều tầng nghĩa hết sức phong phú, để mà khi người ta chiêm nghiệm ra, ngoài tiếng cười phá lên đầy thú vị và sảng khoái, người ta còn cảm thấy tâm đắc và khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đà chất nghệ thuật trong tác phẩm của bà “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Làm chi một chút ... phẩm thơ Hồ Xuân Hương Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp liệt kê Phương pháp so sánh… NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ... chứa phản kháng mạnh mẽ, liệt không trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương đậm đà chất trữ tình đặc sắc CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khắc họa hình tượng nhân vật,... Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận Hồ Xuân Hương – Ghẹo - Xem thêm -Xem thêm NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, , CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, Cách sử dụng từ ngữ, Biện pháp tu từ

thơ trào phúng hồ xuân hương